Thích ứng với dân số già hóa: Bảo đảm an sinh xã hội trong giai đoạn mới

07/11/2025 01:56 PM


Già hóa dân số đang trở thành một trong những thách thức lớn của thế kỷ XXI, tác động sâu rộng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Không chỉ diễn ra ở các quốc gia phát triển, xu hướng này đang gia tăng nhanh chóng tại Đông Nam Á, trong đó Việt Nam được dự báo sẽ sớm bước vào giai đoạn “dân số già” với tốc độ thuộc nhóm cao nhất khu vực.

Ông Tim Evans, Tổng Giám đốc HSBC Việt Nam, nhận định: “Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của một sự chuyển đổi nhân khẩu học sâu sắc, đòi hỏi phải có những chính sách chủ động nhằm bảo đảm mục tiêu an sinh xã hội bền vững”. Dưới đây là góc nhìn của ông về thách thức già hóa dân số toàn cầu và những giải pháp thích ứng để củng cố hệ thống an sinh xã hội trong giai đoạn mới.

Bài học từ các quốc gia phát triển

Từ châu Âu đến châu Á, các quốc gia đều đang phải đối mặt với “kim tự tháp dân số ngược”, khi tỷ lệ sinh giảm mạnh trong khi tuổi thọ tăng cao. Ở châu Âu, số người trên 65 tuổi đã chiếm 20% dân số và dự kiến đạt 30% vào năm 2050, kéo theo gánh nặng chi tiêu công và thách thức đối với hệ thống hưu trí, y tế, phúc lợi xã hội.

Giá hòa dân số đang đặt ra nhiều thách thức trong bảo đảm an sinh xã hội các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. (Ảnh minh họa: Nguồn: Internet)

Tại châu Á, Hàn Quốc là ví dụ điển hình với tỷ lệ sinh thấp kỷ lục, được dự báo 42% dân số sẽ trên 65 tuổi vào năm 2050. Nhật Bản - quốc gia đã trải qua quá trình già hóa lâu năm cho thấy rằng, chỉ khi có hệ thống chính sách linh hoạt, ý thức tiết kiệm cao và cơ chế hưu trí phù hợp thì mới có thể giảm bớt gánh nặng tài chính cho xã hội.

Bài học rút ra là: phát triển kinh tế bền vững phải gắn liền với chiến lược ứng phó chủ động trước già hóa dân số, xây dựng “nền kinh tế trường thọ”, nơi người cao tuổi vẫn có thể tiếp tục đóng góp tích cực vào xã hội.

Từ “cơ cấu dân số vàng” đến giai đoạn già hóa

Theo dự báo của Liên hợp quốc, Việt Nam sẽ chính thức trở thành “xã hội già hóa” vào năm 2038. Chỉ trong vòng chưa đầy hai thập niên, Việt Nam sẽ chuyển từ “xã hội đang già hóa” sang “xã hội già” – tốc độ nhanh hơn cả Nhật Bản, nước mất 24 năm cho quá trình này.

Tại TP Hồ Chí Minh – trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước – hiện có hơn 1,3 triệu người từ 60 tuổi trở lên (chiếm 12,5% dân số). Tỷ lệ này dự kiến tăng lên 20% vào năm 2030, đặt ra yêu cầu cấp bách về quy hoạch đô thị, hạ tầng y tế, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi và chính sách xã hội phù hợp.

Ba thách thức lớn đối với an sinh xã hội

Trước hết là áp lực tài khóa. Khi dân số già đi, chi tiêu công cho y tế, hưu trí và phúc lợi xã hội sẽ tăng mạnh, trong khi lực lượng lao động - nguồn đóng góp ngân sách chủ yếu lại thu hẹp. Bài toán cân đối ngân sách, thuế và nợ công sẽ trở nên phức tạp hơn.

Thứ hai là áp lực tài chính đối với thế hệ trẻ. Khi số người phụ thuộc tăng nhanh, gánh nặng chăm sóc cha mẹ, ông bà cùng chi phí sinh hoạt đô thị khiến người trẻ ngần ngại lập gia đình, sinh con – tạo ra vòng luẩn quẩn khiến tỷ lệ sinh tiếp tục giảm.

Thứ ba là thách thức xã hội trong chăm sóc người cao tuổi. Mô hình chăm sóc truyền thống trong gia đình ngày càng khó duy trì, đòi hỏi hệ thống dịch vụ chăm sóc dài hạn chuyên nghiệp, có bảo hiểm hỗ trợ, giúp giảm gánh nặng cho các hộ gia đình.

Hướng tới chiến lược thích ứng chủ động, tăng cường mở rộng bao phủ BHXH, BHYT

Để ứng phó với thách thức già hóa dân số, Việt Nam cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp.

Một là, tăng cường chăm sóc sức khỏe dự phòng và mở rộng BHYT, coi đây là giải pháp trọng tâm thích ứng, chủ động việc già hóa dân số. Đầu tư cho giáo dục sức khỏe, quản lý bệnh mạn tính và mở rộng dịch vụ khám chữa bệnh tại cộng đồng sẽ giúp người dân sống khỏe mạnh, giảm chi phí y tế dài hạn và gánh nặng chi tiêu công.

Hai là, khuyến khích sinh con và hỗ trợ gia đình trẻ thông qua các chính sách cụ thể như: mở rộng chế độ thai sản, trợ cấp trẻ em, ưu đãi thuế cho hộ gia đình, phát triển mạng lưới nhà trẻ, trường mầm non chất lượng cao và chi phí hợp lý. Đây là điều kiện cần để cải thiện mức sinh, duy trì cân bằng dân số.

Ba là, phát huy vai trò của người cao tuổi và thích ứng linh hoạt trong chính sách lao động – hưu trí. Việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu cần gắn với đặc thù từng ngành nghề, đồng thời đầu tư mạnh cho đào tạo lại kỹ năng, khuyến khích việc làm linh hoạt cho người cao tuổi. Điều này không chỉ giúp giảm áp lực quỹ hưu trí mà còn tận dụng được nguồn nhân lực giàu kinh nghiệm cho nền kinh tế.

Già hóa dân số là xu thế không thể đảo ngược, nhưng nếu có chiến lược ứng phó phù hợp, Việt Nam hoàn toàn có thể biến thách thức thành cơ hội. Một xã hội “trường thọ” với người cao tuổi khỏe mạnh, năng động và được bảo đảm an sinh sẽ là nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững trong giai đoạn mới./.

Thái Dương (t/h)