Việt Nam đạt nhiều tiến bộ đáng ghi nhận trong thúc đẩy bình đẳng giới
18/12/2025 03:22 PM
Hiện tại bài viết chưa được cập nhật nội dung Âm thanh. Xin cảm ơn.
Những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong thúc đẩy bình đẳng giới, qua đó từng bước nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ trong đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong tham gia lãnh đạo, quản lý ở các cấp và các tổ chức chính trị - xã hội - Đó là nhận định của Bà Sinwon Park, Giám đốc Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam, đã chia sẻ những đánh giá toàn diện về các thành tựu, thách thức cũng như khuyến nghị chính sách nhằm hướng tới bình đẳng giới thực chất và bền vững.
Nền tảng pháp lý vững chắc cho bình đẳng giới
Theo bà Sinwon Park, Việt Nam là một trong những quốc gia đạt nhiều tiến bộ đáng ghi nhận trong bình đẳng giới nhờ các cải cách pháp luật mạnh mẽ, nhất là trong lĩnh vực lao động, việc làm, cùng với đầu tư bền vững cho an sinh xã hội và giáo dục. Những kết quả này được xây dựng trên nền tảng hệ thống pháp luật, chính sách tương đối toàn diện, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, như Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Công ước số 111 của ILO về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp, Công ước số 100 về trả công bình đẳng.
Bà Sinwon Park, Giám đốc của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tại Việt Nam.
Luật Bình đẳng giới năm 2006 được đánh giá là dấu mốc quan trọng, khi nghiêm cấm phân biệt đối xử trong các lĩnh vực trọng tâm, khẳng định nam, nữ được đối xử bình đẳng trong lao động, tiền lương và bảo hiểm xã hội, đồng thời yêu cầu lồng ghép giới trong xây dựng pháp luật. Riêng giai đoạn 2015-2020, có 40/111 văn bản pháp luật được ban hành đáp ứng yêu cầu lồng ghép giới, cho thấy cam kết ngày càng rõ nét của các cơ quan nhà nước.
Bộ luật Lao động năm 2019 sửa đổi tiếp tục tạo bước tiến quan trọng, khi bãi bỏ các hạn chế lâu nay đối với việc làm của lao động nữ ở một số ngành, nghề; bổ sung quy định cấm quấy rối tình dục tại nơi làm việc; đồng thời thu hẹp khoảng cách về tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ. Những thay đổi này góp phần mở rộng cơ hội tham gia thị trường lao động và tăng cường bảo vệ pháp lý cho phụ nữ.
Cùng với đó, việc ban hành Luật Dân số, cải cách an sinh xã hội và đặc biệt là Luật BHXH năm 2024 (thông qua tháng 6/2024, có hiệu lực từ tháng 7/2025) đã mở rộng diện bao phủ, nâng cao mức hưởng, rút ngắn thời gian đóng tối thiểu để hưởng lương hưu và mở rộng BHXH bắt buộc tới các nhóm lao động mới. Những chính sách này mang lại lợi ích thiết thực cho phụ nữ, nhóm chiếm tỷ lệ lớn trong khu vực phi chính thức.
Trong lĩnh vực giáo dục, Việt Nam đã đạt được bình đẳng giới ở bậc trung học cơ sở. Năm 2022, tỷ lệ hoàn thành bậc học này của nữ sinh đạt 102,3%, cao hơn nam sinh (98,4%), tạo nền tảng quan trọng để phụ nữ tham gia việc làm có kỹ năng và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo trong tương lai.
Những nỗ lực trong nước cũng được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Năm 2023, Việt Nam tăng 11 bậc trong Chỉ số khoảng cách giới toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới, xếp thứ 72/146 quốc gia và đứng thứ ba trong ASEAN. Theo bà Sinwon Park, đây là minh chứng rõ nét cho những bước tiến vững chắc của Việt Nam trong lĩnh vực này.
Rào cản còn tồn tại trên thị trường lao động
Dù đạt nhiều thành tựu, phụ nữ Việt Nam vẫn đối mặt với không ít rào cản mang tính cấu trúc khi tham gia và phát triển trên thị trường lao động. Một trong những thách thức lớn nhất là sự phân bổ không bình đẳng công việc chăm sóc không được trả lương. Phụ nữ dành gần gấp đôi thời gian so với nam giới cho công việc gia đình và chăm sóc, phản ánh các chuẩn mực xã hội còn tồn tại và sự thiếu hụt dịch vụ chăm sóc.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ đáng ghi nhận trong bình đẳng giới.
Khoảng cách tiền lương theo giới cũng là vấn đề đáng lưu ý, khi thu nhập hằng tháng của phụ nữ trung bình thấp hơn nam giới khoảng 13,8%. Phụ nữ tập trung nhiều ở các ngành, lĩnh vực có mức lương thấp và khu vực phi chính thức, trong khi nam giới chiếm ưu thế ở các ngành có thu nhập cao hơn. Điều này tạo ra bất bình đẳng kéo dài trong suốt vòng đời lao động.
Bên cạnh đó, rào cản trong thăng tiến nghề nghiệp và sự chênh lệch về kỹ năng, nhất là trong các lĩnh vực STEM, tiếp tục hạn chế khả năng tiếp cận các công việc có giá trị gia tăng cao của phụ nữ.
Hướng tới bình đẳng giới thực chất và bền vững
Từ thực tiễn trên, ILO khuyến nghị Việt Nam áp dụng cách tiếp cận toàn diện nhằm xử lý các bất bình đẳng mang tính cấu trúc. Trước hết, khuôn khổ pháp luật cần tiến xa hơn bình đẳng hình thức để đạt được bình đẳng thực chất, thông qua các biện pháp đặc thù nhằm khắc phục những bất lợi kéo dài đối với phụ nữ.
Đồng thời, cần thay đổi cách tiếp cận đối với công việc chăm sóc không được trả lương, coi phát triển kinh tế chăm sóc là trụ cột của tăng trưởng bao trùm. Đầu tư vào dịch vụ chăm sóc chất lượng, chi phí hợp lý không chỉ giảm gánh nặng cho phụ nữ mà còn tạo thêm việc làm và nâng cao tính chính thức của nền kinh tế.
Chính sách việc làm cũng cần gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, bảo đảm phụ nữ được tiếp cận các việc làm mới, có giá trị cao. Cùng với đó là nâng cao chất lượng dữ liệu thị trường lao động phân tách theo giới và củng cố thể chế để hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng.
Theo bà Sinwon Park, trao quyền kinh tế cho phụ nữ không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân phụ nữ mà còn là động lực trung tâm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bao trùm và bền vững của Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới./.
Thái Dương (t/h)
Chi tiết >>
Video: Đại hội đại biểu Công đoàn cơ quan BHXH ...
Từ ngày 01/01/2026: Nhiều điểm mới quan trọng về ...
Tham gia, thụ hưởng chế độ, chính sách BHXH, BHYT ...
Từ ngày 01/01/2026, Gia Lai hỗ trợ kinh phí đóng BHYT cho ...
Phú Thọ phấn đấu đạt 85% trở lên người hưởng lương hưu, trợ ...
BHXH Bảo hiểm xã hội Thành phố Hà Nội trao tặng thẻ Bảo ...
Vai trò của cơ quan Bảo hiểm xã hội trong đăng ký lao động ...
“Đổi pin cũ lấy cây xanh”: Phát huy tinh thần xung kích, ...
Bạn có thể cho biết ý kiến về thông tin cung cấp trên Cổng thông tin của BHXH Việt Nam?
Bạn có hài lòng với nội dung thông tin cung cấp trên Cổng thông tin BHXH Việt Nam?