Đối thoại chính sách: Tăng năng suất lao động cho Việt Nam

28/09/2018 01:37 PM


Ngày 26/9, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) với sự hỗ trợ của Viện Konrad – Adenauer Stiftung (KAS) tổ chức Chương trình Đối thoại Chính sách Tăng năng suất lao động cho Việt Nam.

Đoàn chủ trì đối thoại.

Theo các diễn giả nhiều đánh giá gần đây cho thấy, tăng trưởng năng suất lao động Việt Nam vẫn ở dưới mức cần thiết để đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững. Chỉ bằng cách nâng cao năng suất, Việt Nam mới có thể vượt qua bẫy thu nhập trung bình, cơ cấu lại các ngành công nghiệp và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Vì lý do đó, năng suất lao động trở thành mối quan tâm đặc biệt của Chính phủ trong những năm gần đây. Năm 2019 đang được đề xuất là năm năng suất lao động của Việt Nam.

Ông Peter Girke, Trưởng Đại diện Viện KAS tại Việt Nam cho biết, nền kinh tế của Việt Nam đã phát triển một cách liên tục và đạt được những thành tựu lớn. Nhưng vấn đề năng suất lao động lại chưa có sự tăng trưởng tương xứng, so với nhiều quốc gia trong khu vực thì Việt Nam đang có vấn đề về năng suất lao động. 

Theo PGS.TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có xu hướng suy giảm sớm, trong khi thu nhập bình quân đầu người vẫn còn ở mức rất thấp. Sự sụt giảm trong năng suất lao động là nguyên nhân làm giảm sút tăng trưởng GDP của Việt Nam, từ sau các năm từ 2003 - 2013.

Mặc dù duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao, nhưng năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở mức thấp khi so sánh với năng suất lao động bình quân của các nhóm quốc gia phân chia theo thu nhập. Năm 2017, năng suất lao động của Việt Nam gấp 2 lần năng suất lao động trung bình của nhóm nước thu nhập thấp, bằng hơn 50% nhóm nước thu nhập trung bình thấp và bằng 18,3% nhóm các nước thu nhập trung bình cao.

Năng suất lao động của Việt Nam thấp nhất khi so sánh với các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Philippines, Malaysia và Campuchia. Năng suất lao động của Việt Nam xếp sau Campuchia ở 3 ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; xây dựng; vận tải kho bãi và truyền thông. Tuy nhiên, năng suất lao động của Việt Nam cao hơn nhiều quốc gia ở 3 nhóm ngành khai mỏ và khai khoáng; tài chính bất động sản và dịch vụ văn phòng cũng như dịch vụ cộng đông xã hội, cá nhân.

PGS.TS. Nguyễn Đức Thành thông tin, trong giai đoạn từ 2008 - 2016, các ngành kinh tế vẫn suy trì năng suất lao động cao là khai khoáng, sản xuất điện và phân phối điện, khí, hoạt động tài chính ngân hàng và bảo hiểm, hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ, hoạt động kinh doanh bất động sản và cung cấp nước. Các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có năng suất lao động chưa cao, ngành nông nghiệp, nông lâm thủy ản vẫn nằm trong số các ngành có mức năng suất lao động thấp nhất nền kinh tế.

Quang cảnh đối thoại.

Theo quan điểm của PGS.TS. Nguyễn Đức Thành, hiệu ứng dịch chuyển vẫn có đóng góp lớn vào tăng trường năng suất lao động với hiệu ứng nội ngành. Hiệu ứng tương tác làm giảm tăng trưởng năng suất không nằm ngoài quy luật, vì việc dịch chuyển lao động nhanh từ ngành có năng suất lao động thấp lên cao làm giảm năng suất ở ngành có năng suất lao động cao.

Theo TS. Lê Văn Hùng, Viện Kinh tế Việt Nam (VIE), khu vực FDI giữ vai trò quan trọng đóng góp vào tăng trưởng của năng suất lao động của Việt Nam. Tuy nhiên, đóng góp của khu vực FDI phần lớn do lao động dịch chuyển từ khu vực nội địa có năng suất lao động thấp sang. Để cải thiện đóng góp của khu vực FDI tới năng suất lao động cần chú trọng chất lượng của dòng vốn FDI thu hút thay vì số lượng; tăng cường giám sát của cấp Trung ương và cấp địa phương trong thu hút vốn nước ngoài; đồng thời thí điểm xây dựng vài khu công nghiệp sinh thái chế biến nông, lâm thủy sản. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ và có những hành động cụ thể hơn.

Trong khi đó, PGS.TS Nguyễn Đăng Minh, Phó Viện trưởng Viện quản trị kinh doanh cho rằng, cần áp dụng quản trị tinh gọn để hướng tới tăng NSLĐ và phát triển bền vững. Việc áp dụng tinh gọn trong quản trị sẽ góp phần loại bỏ lãng phí trong sản xuất cũng như tăng cường các sáng kiến cải tiến sản xuất.

Đồng quan điểm trên, PGS.TS Hồ Đình Bảo, Trường Đại học Kinh tế quốc dân còn gợi ý, cần tính toán lại NSLĐ một cách chi tiết hơn trong nghiên cứu để đảm bảo tính khách quan, khoa học cũng như chứng minh rõ nét hơn xu hướng tăng trưởng nội ngành có những đóng góp trong thực tế như thế nào tới tăng NSLĐ. Bên cạnh đó, chuyên gia Hồ Đình Bảo cũng cảnh báo về việc cổ phần hóa dù đây là chủ trương đúng đắn nhưng phải hết sức cân nhắc, thận trọng khi triển khai đồng thời phải chỉ ra được chiến lược thu hút FDI trong thời gian tới để tận dụng và phát huy hiệu quả thực sự của hoạt động này đối với nền kinh tế trong nước nói chung và tăng NSLĐ nói riêng./.

PV