Tăng cường phối hợp giám sát, bảo đảm quyền lợi BHXH, BHYT cho người lao động

24/09/2018 03:57 PM


Những năm qua, đặc biệt là trong 5 năm trở lại đây, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã phối hợp với BHXH Việt Nam thực hiện hàng trăm cuộc giám sát thực hiện chính sách, pháp luật BHXH, BHYT, bảo đảm quyền lợi cho người lao động. Bên thềm Đại hội Công đoàn Việt Nam, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Đào Việt Ánh đã có cuộc trao đổi với phóng viên về những kết quả trong công tác phối hợp giữa 02 đơn vị và định hướng trong thời gian tới…

Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Đào Việt Ánh.

PV: Trước hết, xin Phó Tổng Giám đốc cho biết một vài nét khái quát về hoạt động phối hợp giám sát thực hiện chính sách, pháp luật BHXH, BHYT giữa BHXH Việt Nam và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam?

Phó Tổng Giám đốc Đào Việt Ánh:

Trên cơ sở các Quy chế phối hợp số 1619/QCPH-TLĐ-BHXH ngày 27/4/2012 và Quy chế phối hợp số 2803/QCPH-TLĐ-BHXH ngày 29/7/2015 được ký kết giữa BHXH Việt Nam và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, trong 5 năm qua (từ 2014-2018), Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, BHXH Việt Nam và các cơ quan khác như: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Thanh tra Chính phủ tổ chức các Đoàn giám sát liên ngành giám sát việc thực hiện pháp luật về BHXH đối với 69 doanh nghiệp trên địa bàn 24 tỉnh, thành phố. Cụ thể như sau:

Trong 2 năm (2014-2015), Đoàn giám sát liên ngành về BHXH giám sát tại 28 doanh nghiệp trên địa bàn 10 tỉnh, thành phố (Hưng Yên, Bắc Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tiền Giang, Hà Nam, Nam Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Đồng Tháp và An Giang). Tại các cuộc giám sát, Đoàn đề nghị doanh nghiệp tuân thủ các quy định pháp luật,  khắc phục các vi phạm; giải đáp, hướng dẫn cho doanh nghiệp những vấn đề liên quan đến thực hiện pháp luật. Đặc biệt là nội dung ký đúng loại hợp đồng lao động (HĐLĐ) đảm bảo việc đóng BHXH bắt buộc cho người lao động (NLĐ) làm việc theo HĐLĐ từ đủ 03 tháng trở lên; trả thêm 30% tiền lương cho NLĐ ký hợp đồng mùa vụ hoặc HĐLĐ có thời hạn dưới 03 tháng.

Năm 2016, Đoàn tiến hành giám sát tại 09 doanh nghiệp trên địa bàn 03 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bình Dương); một số doanh nghiệp đã đóng số tiền nợ BHXH ngay trước thời điểm Đoàn giám sát vào làm việc (ví dụ: Công ty TNHH Schindler Việt Nam đã nộp số tiền nợ BHXH là 7.133.248.908 đồng, Công ty CP Trần Đức nộp một phần số tiền nợ BHXH là: 3.521.279.750 đồng). Về cơ bản, các doanh nghiệp tuân thủ việc tuyển dụng, giao kết HĐLĐ với NLĐ; lập, quản lý hồ sơ, sổ sách theo dõi, thực hiện việc đóng và giải quyết chế độ BHXH, BHYT, BH thất nghiệp cho người lao động kịp thời, đúng quy định… Tuy nhiên, còn một số vi phạm chủ yếu đã phát hiện qua giám sát như: có 6/9 doanh nghiệp thường xuyên chậm đóng BHXH theo quy định (trong khoảng từ 1-3 tháng) với tổng số tiền chậm đóng và nợ BHXH của 09 doanh nghiệp là gần 15 tỷ đồng; việc giao kết HĐLĐ với NLĐ chưa đúng với quy định của pháp luật (ví dụ: doanh nghiệp giao kết HĐLĐ thời vụ liên tiếp để làm công việc liên tục có thời gian trên 03 tháng); các doanh nghiệp nợ (chậm) đóng BHXH làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động…

Năm 2017, Đoàn giám sát tại 14 doanh nghiệp trên địa bàn 05 tỉnh, thành phố (Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ An, Cần Thơ, Cà Mau): Có 7/14 doanh nghiệp được giám sát thường xuyên chậm đóng, nợ tiền BHXH (1 đến 3 tháng) với tổng số tiền trên 28 tỷ đồng; có trên 1.200 NLĐ thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nhưng chưa được doanh nghiệp thực hiện các thủ tục để tham gia theo quy định của pháp luật… Thông qua hoạt động giám sát liên ngành đã giúp các cơ quan chức năng phát hiện những vấn đề bất cập, chưa hợp lý của chính sách BHXH, đánh giá rõ ràng tình hình vi phạm pháp luật BHXH của các doanh nghiệp, trong đó nổi bật là tình trạng trốn đóng, nợ đóng BHXH. Theo đó, kết thúc giám sát, Đoàn giám sát liên ngành đã kiến nghị với Chính phủ, các Bộ, ngành chức năng, các cơ quan lập pháp và tư pháp có liên quan xem xét, có các giải pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tình trạng trốn đóng và nợ, chậm đóng BHXH của người sử dụng lao động, xử lý theo quy định của pháp luật và trả lời bằng văn bản về kết quả xử lý những hành vi vi phạm pháp luật BHXH trong thực hiện các chế độ, chính sách BHXH liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ trong các doanh nghiệp, bảo vệ tốt hơn quyền được tham gia và hưởng BHXH của NLĐ; thường xuyên trao đổi kịp thời, thông báo, cảnh báo và cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng ở địa phương phối hợp để giải quyết, xử lý tình hình vi phạm của các doanh nghiệp trong thực hiện các chính sách về BHXH.

Năm 2018, thực hiện Quyết định số 1261/QĐ-TLĐ ngày 12/7/2018 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, các Đoàn giám sát liên ngành đang tiếp tục tiến hành giám sát việc thực hiện pháp luật về BHXH tại 18 doanh nghiệp trên địa bàn 06 tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Hải Dương, Đà Nẵng, Quảng Nam, Long An, Vĩnh Long...

PV: Bên cạnh hoạt động phối hợp giám sát, hoạt động phối hợp kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật BHXH, BHYT giữa BHXH Việt Nam và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã đạt được những kết quả như thế nào, thưa Phó Tổng Giám đốc?

Phó Tổng Giám đốc Đào Việt Ánh:

Từ năm 2013-2016, BHXH Việt Nam đã phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thực hiện kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT tại BHXH 09 tỉnh thành phố, gồm: Bình Phước, Gia Lai, Tây Ninh, Cần Thơ, Điện Biên, Sơn La, Quảng Bình, Bắc Kạn, Lào Cai. Qua thực hiện phối hợp kiểm tra đã phát hiện 3.494 lao động chưa tham gia đóng BHXH, BH thất nghiệp, BHYT; 2.553 lao động đóng BHXH, BH thất nghiệp, BHYT không đúng mức quy định; yêu cầu truy thu số tiền là 716 triệu đồng do đơn vị sử dụng lao động chưa tham gia BHXH, BHYT cho người lao động. Ngoài ra, đã phát hiện và yêu cầu thu hồi về quỹ BHXH số tiền 577 triệu đồng do thanh toán chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe chưa đúng quy định và yêu cầu thu hồi về quỹ BHYT số tiền 7.361 triệu đồng do chi khám, chữa bệnh BHYT không đúng quy định.

Từ năm 2017, theo Luật BHXH năm 2014, cơ quan BHXH Việt Nam được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành BHXH, BH thất nghiệp, BHYT. Do vậy, BHXH Việt Nam chỉ tổ chức thành lập các Đoàn thanh tra chuyên ngành đóng BHXH, BH thất nghiệp, BHYT nên không có sự phối hợp kiểm tra với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

PV: Theo quy định tại Điều 14 của Luật BHXH 2014, chức năng khởi kiện được giao cho tổ chức Công đoàn, tuy nhiên, việc khởi kiện nợ, trốn đóng BHXH phải do Công đoàn cơ sở và được người lao động ủy quyền. Quy định này dẫn tới thực tế công tác khởi kiện doanh nghiệp nợ BHXH có gì khác so với trước đây do cơ quan BHXH thực hiện, thưa Phó Tổng Giám đốc?

Phó Tổng Giám đốc Đào Việt Ánh:

Trước đây, khi cơ quan BHXH là người khởi kiện đơn vị nợ BHXH để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thì việc khởi kiện thực hiện theo thủ tục vụ án dân sự. Hiện nay, theo quy định tại Luật BHXH và Luật Công đoàn thì công đoàn cơ sở hoặc công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở có trách nhiệm đại diện cho tập thể người lao động khởi kiện tại Toà án khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của tập thể người lao động bị xâm phạm; đại diện cho người lao động khởi kiện tại Toà án khi quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động bị xâm phạm và được người lao động uỷ quyền. Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, việc khởi kiện của tổ chức công đoàn đòi hỏi phải do công đoàn cơ sở khởi kiện hoặc phải có giấy ủy quyền của người lao động.

Thực tế việc khởi kiện của tổ chức công đoàn gặp rất nhiều khó khăn và hầu như chưa phát huy được hiệu quả. Một trong các nguyên nhân đó là do người được trao quyền khởi kiện lại không dám sử dụng quyền của mình (tổ chức công đoàn cơ sở không dám đứng ra khởi kiện hoặc ủy quyền cho công đoàn cấp trên khởi kiện; Người lao động lại càng không dám ủy quyền cho tổ chức công đoàn kiện chủ doanh nghiệp của mình khi bản thân cần có công ăn việc làm). Do đó, thời gian qua, mặc dù cơ quan BHXH đã tích cực hỗ trợ các tổ chức công đoàn hồ sơ, tài liệu, số liệu phục vụ cho việc khởi kiện và đã chuyển hơn 2.909 hồ sơ cho tổ chức công đoàn nhưng số vụ mà tổ chức công đoàn nộp đơn khởi kiện còn rất khiêm tốn (126 hồ sơ) trong đó có tới 96 hồ sơ bị Tòa án trả lại với lý do thiếu giấy ủy quyền của người lao động hoặc giấy ủy quyền của tổ chức công đoàn cơ sở.

Đây là nguyên nhân mang tính thực tế và không thể thay đổi một sớm một chiều. Vì vậy, bên cạnh việc thực hiện các biện pháp để nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các cá nhân, tổ chức; nâng cao ý thức tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân người lao động thì trước mắt chúng ta nên có những điều chỉnh về chính sách, quy định của pháp luật sao cho hài hòa để có thể bảo vệ lợi ích của người lao động, lợi ích của Nhà nước một cách hiệu quả nhất. Những quy định đã được thực hiện tốt, có kết quả thực tế thì nên tiếp tục phát huy.

PV: Từ năm 2018 đến nay, số vụ khởi kiện nợ BHXH do tổ chức công đoàn thực hiện rất ít. Mức độ hợp tác giữa cơ quan BHXH với tổ chức công đoàn trong việc khởi kiện doanh nghiệp nợ BHXH đến đâu và hiệu quả ra sao, thưa Phó Tổng Giám đốc?

Phó Tổng Giám đốc Đào Việt Ánh:

Tháng 9/2016, BHXH Việt Nam đã phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ký quy chế phối hợp về trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu giữa hai bên trong việc khởi kiện ra tòa án đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT, BH thất nghiệp. Theo quy chế, cơ quan BHXH có trách nhiệm cung cấp cho tổ chức công đoàn danh sách các đơn vị nợ BHXH cần khởi kiện, hồ sơ xác định nợ và các tài liệu khác có liên quan để phục vụ việc khởi kiện.

Sau gần 2 năm triển khai thực hiện Quy chế, việc phối hợp giữa cơ quan BHXH và tổ chức công đoàn đã đạt một số kết quả nhất định như:

Cơ quan BHXH các cấp đã cung cấp 2.909 hồ sơ đơn vị sử dụng lao động nợ tiền BHXH cho công đoàn cùng cấp để thực hiện việc khởi kiện (riêng năm 2018 là 887 hồ sơ), LĐLĐ tỉnh đã nộp 126 hồ sơ khởi kiện cho Tòa án, 04 vụ việc đã có Quyết định công nhận thỏa thuận của Tòa án (hòa giải thành), với tổng số tiền đã trả nợ sau hòa giải là 1 tỷ 320 triệu đồng (riêng năm 2018 là 696 triệu đồng).

Cơ quan BHXH và tổ chức công đoàn đã tích cực phối hợp đôn đốc, thuyết phục các đơn vị sử dụng lao động trả nợ. Kết quả: nhiều đơn vị đã chủ động khắc phục hết nợ hoặc cam kết trả nợ theo lộ trình. Tính đến cuối tháng 7/2018 đã có 986 đơn vị nợ tiền BHXH nộp hết số tiền nợ, 883 đơn vị đã khắc phục một phần số nợ với tổng số tiền thu được là 878 tỷ đồng (riêng năm 2018 là 176 tỷ đồng).

LĐLĐ và BHXH một số tỉnh, thành phố đã chủ động tích cực thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ như: Thành lập Tổ giám sát và tiến hành giám sát tình hình doanh nghiệp nợ BHXH trước khi lập hồ sơ khởi kiện; Thành lập Hội đồng Chỉ đạo và thực hiện khởi kiện; Gửi thư nhắc nợ, thành lập đoàn Thanh tra chuyên ngành, chuyển danh sách các đơn vị nợ cho cơ quan Thuế để điều chỉnh chi phí hoạt động của doanh nghiệp khi quyết toán thuế hàng năm…

PV: Ở góc độ là cơ quan tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật BHXH, BHYT, theo ông, để tổ chức công đoàn có thể thực hiện tốt quyền khởi kiện, Luật BHXH nên được sửa như thế nào?

Phó Tổng Giám đốc Đào Việt Ánh:

Những khó khăn, vướng mắc gặp phải trong khi tổ chức công đoàn thực hiện khởi kiện đơn vị nợ BHXH đã được BHXH Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam báo cáo kịp thời và được Chính phủ lắng nghe, chỉ đạo các bộ, ngành có liên quan tháo gỡ. Tại các cuộc họp liên ngành giữa Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, BHXH Việt Nam, Tòa án Nhân dân tối cao và các bộ, ngành có liên quan, vấn đề quyền khởi kiện của cơ quan BHXH, khó khăn khi tổ chức công đoàn khởi kiện đã được thảo luận, xem xét.

 Căn cứ tình hình khởi kiện trong thời gian vừa qua, theo chúng tôi, để tổ chức công đoàn có thể thực hiện tốt quyền khởi kiện cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, đề nghị điều chỉnh quy định pháp luật theo hướng cho phép công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở được quyền khởi kiện đơn vị nợ BHXH (hiện nay đang quy định cho công đoàn cơ sở thực hiện).

Thứ hai, tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng của hệ thống cán bộ công đoàn đảm nhiệm công tác khởi kiện; phối hợp chặt chẽ với cơ quan BHXH các cấp để nắm bắt thông tin, hỗ trợ thực hiện việc khởi kiện. Nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động, tập thể người lao động.

Thứ ba, đề nghị tổ chức công đoàn phối hợp với cơ quan BHXH các cấp đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các đơn vị sử dụng lao động; nâng cao ý thức tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân người lao động.

Trân trọng cảm ơn Phó Tổng Giám đốc!

PV (Thực hiện)

         

PV (thực hiện)