Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII: Phát triển BHXH, BHYT toàn dân để bảo đảm an sinh xã hội bền vững

04/12/2023 05:50 PM


Ngày 4/12/2023, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Tại chuyên đề: "Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới", Ủy viên Bộ Chính Trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, chính sách xã hội là chính sách chăm lo cho con người, trong đó, trụ cột là BHXH, BHYT, BHTN, trợ giúp xã hội, giảm nghèo trên nguyên tắc toàn dân, toàn diện. Vì vậy, tăng cường truyền thông, quyết tâm xây dựng, thực hiện chính sách xã hội toàn dân, toàn diện, bao trùm; chú trọng phát triển BHXH, BHYT toàn dân để đảm bảo an sinh xã hội bền vững...

Toàn cảnh Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại điểm cầu Trung ương tại Phòng họp Diên Hồng (Nhà Quốc hội)

Hơn 1,44 triệu cán bộ, đảng viên nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8

Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến, từ điểm cầu Trung ương tại Phòng họp Diên Hồng (Nhà Quốc hội) kết nối tới 16.242 điểm cầu các ban, bộ, ngành, đoàn thể, đơn vị ở Trung ương và các địa phương trên toàn quốc; có 1.441.261 các lãnh đạo, cán bộ, đảng viên tham dự nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết.

Dự và chỉ đạo Hội nghị có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai.

Dự Hội nghị có các Ủy viên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII cùng các cán bộ chủ chốt các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong toàn hệ thống chính trị và đông đảo cán bộ, đảng viên.

Đồng chí Nguyễn Thế Mạnh, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam và các Phó Tổng Giám đốc: Trần Đình Liệu, Lê Hùng Sơn, Nguyễn Đức Hòa, Chu Mạnh Sinh tham dự tại điểm cầu điểm cầu Trung ương tại Phòng họp Diên Hồng. Dự Hội nghị tại điểm cầu BHXH Việt Nam có đồng chí Vũ Quốc Tuấn - Phó Bí thư Đảng ủy; Phó Chủ tịch chuyên trách HĐQL BHXH Nguyễn Văn Cường và cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong đảng bộ.

Điểm cầu tại BHXH Việt Nam

Tại Hội nghị, các đại biểu đã được nghe 04 chuyên đề do Ủy viên Bộ Chính trị: Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang và Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa truyền đạt. Nội dung các chuyên đề tập trung vào những vấn đề cốt lõi, những điểm mới của các nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII.

Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc

Tại Hội nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng trình bày chuyên đề Nghị quyết số 43-NQ/TW: "Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc".

Nhấn mạnh ba lý do rất quan trọng để Trung ương ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW, Chủ tịch nước cho biết, sau 20 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, chúng ta đã có những bước tiến trong xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố, tăng cường và phát huy. Các giai tầng xã hội chuyển biến tích cực, phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng.

Chủ tịch nước cũng chỉ rõ, qua 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, Trung ương đã thống nhất đánh giá vẫn còn một số hạn chế, khuyết điểm và rút ra một số bài học kinh nghiệm. Từ thực tiễn sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23 và gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước cho thấy, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đã có nhiều thay đổi.

Theo Chủ tịch nước, nhận thức về đoàn kết, đại đoàn kết có nhiều yếu tố mới và không chỉ ở Việt Nam, mà cả khu vực, thế giới. "Giữa đoàn kết và chia rẽ thì dường như đoàn kết sẽ mạnh hơn, phát triển. Không đoàn kết hay tệ hơn là chia rẽ sẽ kiềm chế sự phát triển, thậm chí kéo thụt lùi sự phát triển của một số quốc gia", Chủ tịch nước phân tích.

Về nội dung của Nghị quyết số 43-NQ/TW, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cho biết có 4 quan điểm được Đảng tiếp cận đầy đủ, toàn diện, hệ thống, trong đó, khẳng định vị trí, vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đồng chí Võ Văn Thưởng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước truyền đạt chuyên đề "Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc".

Quan điểm thứ nhất, đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu và là đường lối, chiến lược, xuyên suốt của Đảng, đây là nguồn sức mạnh to lớn và nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi. Nền tảng quan trọng của đại đoàn kết toàn dân tộc chính là liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; cùng với đó là quan hệ bền chặt giữa Đảng và nhân dân, là niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ.

Thêm đó là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết giữa giai tầng xã hội, cộng đồng dân tộc, tôn giáo, người Việt trong nước, ngoài nước và giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới...

Bác Hồ đã nói "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công" - dẫn lời dạy của Bác Hồ, Chủ tịch nước cho rằng, nếu như có đoàn kết trong Đảng thì sẽ có thành công. Nếu có đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong dân thì sẽ có thành công lớn hơn và nếu có cả đoàn kết trong Đảng, trong dân và đoàn kết quốc tế thì sẽ đạt tới đại đoàn kết, đại thành công lớn hơn.

Như vậy, cách đặt vấn đề của Nghị quyết số 43-NQ/TW đã rộng hơn, làm rõ hơn nội hàm của đại đoàn kết dân tộc.

Quan điểm thứ hai, xác định mục tiêu chung của dân tộc để phát huy truyền thống và sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng chia sẻ, mỗi người có một suy nghĩ khác nhau, thậm chí yêu nước bằng một cách riêng của mình. Nhưng điểm chung nhất mọi người Việt Nam yêu nước là xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.

Quan điểm thứ ba, về phương thức để phát huy truyền thống và sức mạnh đại đoàn kết, trong Nghị quyết số 43-NQ/TW nêu đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Phân tích quan điểm này, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng nhấn mạnh muốn đại đoàn kết phải phát huy dân chủ và nếu đoàn kết mà không có dân chủ thì là đoàn kết "xuôi chiều" hay đoàn kết mà không lắng nghe các ý kiến khác nhau là đoàn kết "xuôi chiều".

"Cán bộ cấp dưới mà cứ lựa coi cấp trên nghĩ gì để nói là nguy hiểm cho Đảng, đất nước. Một cán bộ vào họp tập thể lãnh đạo nhưng lại cứ suy nghĩ vấn đề này ông thủ trưởng nói, suy nghĩ thế nào để mình nói phù hợp thì nguy hiểm. Cái đó là đoàn kết một chiều, đoàn kết xuôi chiều, đoàn kết trên sự bưng bít, không lắng nghe sự thật. Đoàn kết phải phát huy dân chủ, chỗ nào không có dân chủ thì không có đoàn kết thực sự", Chủ tịch nước khẳng định.

Chủ tịch nước nêu, chỗ này chỗ kia vẫn có câu chuyện họp nhưng thấy không thẳng thắn, không trao đổi một cách chân thành, lắng nghe, phân tích, mổ xẻ mà bàn vấn đề gì chỉ đi hỏi thủ trưởng nghĩ chuyện này thế nào để phát biểu cho trúng ý thủ trưởng là không nên.

Quan điểm thứ tư, theo Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân, trách nhiệm của Đảng, cả hệ thống chính trị. Trong đó, Đảng giữ vai trò quan trọng nhất. Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội giữ vai trò nòng cốt trong tập hợp, đoàn kết, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng, sáng tạo của nhân dân.

Tăng cường truyền thông, quyết tâm xây dựng và thực hiện chính sách xã hội toàn dân, toàn diện, bao trùm và bền vững

Truyền đạt nội dung chuyên đề, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đúc rút 5 bài học chủ yếu: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết (đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế); kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế; sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Thủ tướng Chính phủ cho biết, Hội nghị Trung ương 8 đã thông qua 4 Nghị quyết quan trọng, trong đó có Nghị quyết số 42-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 42-NQ/TW). Theo đó, chính sách xã hội là chính sách chăm lo cho con người; là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội; thể hiện đặc trưng, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm chính sách xã hội; tạo điều kiện để nhân dân thụ hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính sách xã hội có phạm vi rộng và ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng đến tất cả các tầng lớp nhân dân và toàn xã hội, được triển khai ở tất cả các cấp, ngành, địa phương.

Hội nghị nghe Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính truyền đạt chuyên đề: "Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới".

Đánh giá khái quát những kết quả đạt được sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020 (Nghị quyết số 15-NQ/TW), Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân khắp mọi miền đất nước được nâng lên rõ rệt; diện mạo xã hội thay đổi căn bản; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững. Kinh tế - xã hội phát triển toàn diện và hài hòa hơn; đem lại niềm tin và sự hài lòng của người dân, khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế, bất cập như: Phạm vi bao phủ và khả năng giải quyết rủi ro của các chính sách xã hội còn thấp; kết quả giảm nghèo có nơi, có lúc chưa vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn cao; thị trường lao động phát triển chưa thực sự đồng bộ; các dịch vụ xã hội cơ bản chưa đáp ứng tốt nhu cầu của người dân; năng lực, nguồn lực bảo vệ môi trường, ứng phó với thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu còn hạn chế.

Nhấn mạnh sự cần thiết ban hành nghị quyết về đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, Thủ tướng Chính phủ cho biết, sau khi tham khảo một số mô hình điển hình trên thế giới, sẽ lấy ưu điểm của từng mô hình trên để đưa ra mô hình chính sách xã hội phù hợp với đặc điểm nước ta - một nước đang phát triển, giải quyết hài hòa giữa tôn trọng sự phát triển của thị trường với quản lý, điều tiết của Nhà nước.

Thông tin về những điểm mới, nổi bật của Nghị quyết số 42-NQ/TW, Thủ tướng Chính phủ cho biết, Nghị quyết chuyển đổi cách tiếp cận từ "bảo đảm và ổn định" sang "ổn định và phát triển"; gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người, an ninh xã hội; kết hợp hài hòa giữa tiếp tục đảm bảo an sinh xã hội và các chính sách xã hội khác để đảm bảo ổn định xã hội. Đồng thời tập trung cho phát triển, tiến bộ xã hội thông qua phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực, phát triển tầng lớp trung lưu gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững và làm động lực phát triển kinh tế, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đáng chú ý, Nghị quyết số 42-NQ/TW mở rộng phạm vi ra toàn bộ các nhóm chính sách xã hội cho tất cả các đối tượng trên nguyên tắc bảo đảm tính toàn dân, toàn diện, bao gồm các chính sách về ưu đãi người có công với cách mạng; lao động, việc làm, phát triển nguồn nhân lực; đảm bảo an sinh xã hội (trụ cột là BHXH, BHYT, BHTN, trợ giúp xã hội, giảm nghèo, trong đó, chú trọng phát triển BHXH, BHYT toàn dân); nâng cao phúc lợi xã hội và đảm bảo tiếp cận dịch vụ xã hội (về y tế, giáo dục, nhà ở, văn hóa, nước sạch, vệ sinh môi trường, thông tin); nhóm yếu thế, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người có hoàn cảnh khó khăn ở vùng sâu, vùng xa.

Về một số quan điểm, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, Nghị quyết số 42-NQ/TW đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội theo hướng toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững. Chính sách xã hội phải đặt trong tổng thể quản lý phát triển xã hội bền vững. Giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, chăm lo con người và vì con người; tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm chính sách xã hội; đầu tư cho chính sách xã hội là đầu tư cho phát triển. Đổi mới công tác quản lý Nhà nước; tăng cường phân cấp, phân quyền; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; động viên sự tham gia tích cực của nhân dân, doanh nghiệp; khơi dậy khát vọng phát triển, ý chí tự lực, tự cường, phát huy truyền thống, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc.

Về mục tiêu tổng quát đến năm 2030, Nghị quyết số 42-NQ/TW xác định rõ việc xây dựng hệ thống chính sách xã hội theo hướng bền vững, tiến bộ và công bằng; hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững; phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, hội nhập quốc tế. Nghị quyết đưa ra 37 chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030.

Xác định tầm nhìn đến năm 2045, hệ thống chính sách xã hội phát triển toàn diện, bền vững, tiến bộ và công bằng, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân; nằm trong nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) cao trên thế giới.

Nghị quyết số 42-NQ/TW đưa ra hệ thống 9 nhóm giải pháp đồng bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực về chính sách xã hội (nâng cao nhận thức, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; hệ thống an sinh xã hội; nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân; cung cấp dịch vụ xã hội; hợp tác quốc tế; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng). Trong khi đó, Nghị quyết số 15-NQ/TW tập trung vào 3 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu (về chính sách ưu đãi người có công, bảo đảm an sinh xã hội và giải pháp thực hiện).

Những điểm đổi mới trong tổ chức thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW là, Bộ Chính trị ban hành kế hoạch thực hiện Nghị quyết và lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ, kịp thời. Các tỉnh ủy, thành ủy; các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương nghiên cứu, quán triệt và xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết; định kỳ kiểm tra, đánh giá việc thực hiện. Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì tổ chức hướng dẫn việc nghiên cứu, học tập và quán triệt tuyên truyền sâu rộng về Nghị quyết. Ban Kinh tế Trung ương chủ trì thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Nghị quyết; định kỳ sơ kết, tổng kết, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết.

Về một số điểm trọng tâm, cần lưu ý trong Nghị quyết số 42-NQ/TW, Thủ tướng nhấn mạnh việc tập trung xây dựng và phát triển thị trường lao động linh hoạt, đa dạng, hiệu quả, bền vững và hội nhập (bảo đảm việc làm bền vững và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực); bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường). Về xây dựng nhà ở xã hội, Đề án xây dựng ít nhất 1 triệu căn nhà ở xã hội đến năm 2030; xóa bỏ nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, cận nghèo, người bị ảnh hưởng bởi thiên tai… Đồng thời, xây dựng Khung quốc gia về thích ứng già hóa dân số và điều chỉnh tỷ suất sinh thay thế; phấn đấu Việt Nam là quốc gia tiên phong trong Chương trình thúc đẩy toàn cầu về việc làm và an sinh xã hội hướng đến chuyển đổi công bằng theo sáng kiến của Liên hợp quốc và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO).

Theo chương trình, buổi chiều, đồng chí Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng truyền đạt chuyên đề: "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới"; đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương truyền đạt chuyên đề: "Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới".

Đồng chí Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng truyền đạt chuyên đề: "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới"

Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức phát triển toàn diện, nâng cao năng lực, trình độ và cống hiến cho đất nước

Truyền đạt chuyên đề: "Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới", Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa nhận mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của nhân tài trong công cuộc làm hưng thịnh đất nước.

Khái quát kết quả 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW về "Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" (Nghị quyết số 27), Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương cho biết, nhận thức trong Đảng, hệ thống chính trị và xã hội về vị trí, vai trò quan trọng của đội ngũ trí thức ngày càng đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn. Việc thể chế hóa Nghị quyết được quan tâm; cơ chế, chính sách, nhất là chính sách thu hút, trọng dụng, tôn vinh, đãi ngộ nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức tiếp tục được hoàn thiện. Đội ngũ trí thức Việt Nam có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng; là lực lượng đi đầu trong nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ, hội nhập quốc tế; được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, đầu tư nguồn lực, cơ sở vật chất, tạo môi trường làm việc thuận lợi.

Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương truyền đạt chuyên đề: “Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới”

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, một số nội dung của Nghị quyết số 27 chậm được thể chế; chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, đồng bộ; thiếu cơ chế, chính sách đột phá trong đầu tư, huy động nguồn lực, đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng, tôn vinh trí thức, nhất là bộ phận trí thức tinh hoa, các nhà khoa học, nhà văn hóa lớn. Cơ cấu, số lượng, chất lượng đội ngũ trí thức chưa hợp lý, thiếu hụt chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực quan trọng; chưa tạo được môi trường thuận lợi động viên trí thức chủ động nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, truyền thụ kiến thức, tư vấn, phản biện xã hội; việc xây dựng đội ngũ trí thức chưa gắn với mục tiêu, nhiệm vụ của từng ngành, địa phương...

Nhấn mạnh sự cần thiết ban hành nghị quyết về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương thông tin, ngày 24/11/2023, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 45).

Theo đó, quan điểm Nghị quyết số 45 đã kế thừa Nghị quyết số 27 và bổ sung, làm rõ hơn nội hàm trí thức về trình độ, phẩm chất đạo đức, cống hiến; về vị trí vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức… Cùng với đó, Nghị quyết số 45 định hướng rõ quan điểm, xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh toàn diện là đầu tư cho xây dựng, bồi đắp "nguyên khí quốc gia" và tiếp tục khẳng định xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội. Đồng thời, chú trọng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam cả trong và ngoài nước, có cơ chế, chính sách đột phá thu hút, trọng dụng trí thức, đặc biệt là trí thức tinh hoa, chuyên gia đầu ngành và nhân tài của đất nước; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng lớp trí thức trẻ, kế cận. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng, học thuật, thực hành dân chủ trong hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; tạo môi trường, điều kiện và động lực để phát huy vai trò, sự cống hiến đặc biệt quan trọng của đội ngũ trí thức.

Đáng chú ý, Nghị quyết số 45 động viên đội ngũ trí thức Việt Nam nêu cao lòng tự hào, vinh dự và trách nhiệm đối với Tổ quốc và dân tộc, không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ đóng góp cho phát triển của đất nước.

Đến năm 2030, mục tiêu phát triển đội ngũ trí thức về số lượng và chất lượng, nhất là đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực then chốt, trọng yếu, lĩnh vực mới đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tầm nhìn đến năm 2045, đội ngũ trí thức Việt Nam lớn mạnh, có chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, thuộc tốp đầu khu vực và tiệm cận với các nước phát triển. Nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng trên thế giới, đạt các giải thưởng quốc tế trên các lĩnh vực. Nhiều tổ chức khoa học và công nghệ, cơ sở giáo dục và đào tạo đạt chuẩn quốc tế đáp ứng yêu cầu của quốc gia phát triển.

Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương cho biết, Nghị quyết số 45 đề ra 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp. Mỗi nhóm nhiệm vụ, giải pháp lớn gồm nhiều các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể và do các chủ thể khác nhau thực hiện.

Cụ thể, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và chính quyền về vị trí, vai trò quan trọng của trí thức; đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, trọng dụng nhân tài; tăng cường quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đối với đội ngũ trí thức; tăng cường nguồn lực xây dựng đội ngũ trí thức chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động các hội trí thức.

Nghiên cứu đầy đủ, toàn diện, quyết tâm, nỗ lực để các Nghị quyết đạt kết quả thực chất

Phát biểu kết luận Hội nghị, đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng ban Tổ chức Trung ương nêu rõ, Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã nghe 04 chuyên đề: “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và “Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới”; “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”; “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”.

Các báo cáo đã nhấn mạnh, làm sâu sắc thêm nội dung trong từng Nghị quyết về kết quả, hạn chế, nguyên nhân, nêu rõ điểm mới, bối cảnh, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết và cập nhật thêm một số thông tin liên quan, làm rõ tình hình theo yêu cầu của từng Nghị quyết.

Đồng chí Trương Thị Mai ghi nhận, đánh giá cao các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị đã tham gia nghiêm túc Hội nghị, theo báo cáo của Ban Tuyên giáo Trung ương, số lượng cán bộ, đảng viên tham dự Hội nghị gần 1,5 triệu, với hơn 16 nghìn điểm cầu, có địa phương kết nối tới các xã, phường, thị trấn. Đây chỉ là bước khởi đầu để Nghị quyết đi vào cuộc sống, cần tiếp tục nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các Nghị quyết, nêu cao trách nhiệm, quyết tâm, nỗ lực để đảm bảo các Nghị quyết đạt được kết quả thực chất, gắn với từng địa phương, đơn vị. Trên cơ sở đó, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp Nhân dân, tạo đồng thuận cao trong thực hiện các Nghị quyết của Đảng.

Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng ban Tổ chức Trung ương phát biểu kết luận Hội nghị

Đồng chí Trương Thị Mai đề nghị, sau Hội nghị này, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục quán triệt, cụ thể hóa, tổ chức thực hiện nghiêm, quyết liệt, đồng bộ các Nghị quyết đạt được kết quả theo yêu cầu của Đảng. Tổ chức đánh gía, rút kinh nghiệm, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết đạt được hiệu quả cao, không để xảy ra tình trạng “đầu voi, đuôi chuột”, tránh học tập, quán triệt mang tính hình thức, đối phó.