Tập trung hoàn thiện cơ sở dữ liệu chuyên ngành, tạo lập trí tuệ thông minh Việt Nam

06/02/2025 03:56 PM


Chiều 6/2, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, đã chủ trì phiên họp lần thứ 10 tổng kết hoạt động Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số và Đề án 06 năm 2024, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2025.

Cùng dự có đồng chí Nguyễn Hòa Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương. Phiên họp được truyền trực tuyến tới điểm cầu các bộ, ngành, UBND các địa phương trong cả nước.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, phát biểu tại phiên họp (Ảnh: VGP/Nhật Bắc)

Phát biểu khai mạc phiên họp, Thủ tướng Chính phủ đánh giá: Nghị quyết số 57 ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST) và chuyển đổi số (CĐS) - một văn kiện có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu bước chuyển mình quan trọng của đất nước trong lĩnh vực KHCN, ĐMST và CĐS.

Ngay sau khi Nghị quyết được ban hành, Chính phủ đã khẩn trương chỉ đạo ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 57 với tinh thần 5 rõ: “rõ người”, “ rõ việc”, “rõ trách nhiệm”, “rõ thời gian” và “rõ kết quả”. Đây là Chương trình hành động toàn diện, được thiết kế với tầm nhìn dài hạn, mục tiêu rõ ràng, và các giải pháp mang tính khả thi cao, nhằm cụ thể hóa các định hướng, chủ trương lớn của Đảng thành những hành động thiết thực, sát thực tiễn. Đồng thời, chương trình hành động này cũng là những phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm để thúc đẩy triển khai chuyển đổi số và Đề án 06 trong thời gian tới.

Theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo, triển khai đồng bộ các giải pháp để thực hiện ngày càng hiệu quả, thiết thực công cuộc CĐS quốc gia; đẩy mạnh CĐS trên hầu hết các lĩnh vực. Đồng thời, tổ chức triển khai quyết liệt Đề án 06 từ Trung ương đến cơ sở, được người dân, doanh nghiệp đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao; góp phần thay đổi phương thức quản lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả trong quản lý công dân; tiết kiệm thời gian, công sức, hạn chế tiêu cực, tham nhũng vặt; tạo nền tảng quan trọng để triển khai các dịch vụ công trực tuyến.

Dẫn chứng về việc ứng dụng hiệu quả Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung hoàn thiện cơ sở dữ liệu chuyên ngành, tạo lập trí tuệ thông minh Việt Nam, góp phần giúp đất nước phát triển, người dân, doanh nghiệp được thụ hưởng, đỡ phiền hà, sách nhiễu, tham nhũng vặt.

“Tuy nhiên, để hoàn thành các mục tiêu của CĐS quốc gia và Đề án 06, phía trước chúng ta còn rất nhiều việc phải làm; còn có một số việc đề ra nhưng chậm tiến độ; có những việc chúng ta nhìn thấy “nguy cơ” khó có thể hoàn thành nếu không chỉ đạo quyết liệt, kiên trì, nhất quán, đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở”- Thủ tướng đánh giá.

Để tiếp tục thực hiện hiệu quả nhiệm vụ CĐS quốc gia và triển khai Đề án 06 trong thời gian tới, Thủ tướng đề nghị các đại biểu đánh giá thẳng thắn, rõ ràng, khách quan, minh chứng bằng số liệu cụ thể việc đánh giá việc thực hiện CĐS quốc gia và Đề án 06 năm 2024 và những kết quả đạt được trong năm 2024. Nhận diện các tồn tại, hạn chế, yếu kém, vướng mắc, rào cản, điểm nghẽn, nhất là về thể chế, cơ chế, chính sách; chỉ rõ những nội dung còn chậm tiến độ (thuộc trách nhiệm của cơ quan, địa phương nào), đồng thời, xác định nguyên nhân, rút ra các bài học kinh nghiệm.

Chia sẻ những kinh nghiệm hay, bài học quý, cách làm sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo điều hành và tổ chức thực hiện (phát triển hạ tầng số; cung cấp dịch vụ công trực tuyến; phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia, kết nối chia sẻ thông tin, hình thành dữ liệu lớn; đào tạo và phát triển nhân lực; cách làm hay của một số bộ, ngành, địa phương...) và xác định rõ các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm mang tính tăng tốc, bứt phá về đích trong thời gian tới.

Thủ tướng nhấn mạnh, vấn đề ở đây là ý tưởng đi đúng hướng, phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước và nguyện vọng của nhân dân, cơ chế, chính sách phải tập trung cũng như phát huy nguồn lực để làm tốt công tác này. Tinh thần là ai làm tốt cần khuyến khích, đầu tư, ai không làm tốt phải phê bình, xử lý.

Chỉ số phát triển chính phủ điện tử ở mức 'Rất cao'

Báo cáo về tình chuyển đổi số quốc gia năm 2024, Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 71/193 quốc gia trong bảng xếp hạng Chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc (công bố tháng 9/2024), tăng 15 bậc so với 2022. Đây là lần đầu tiên Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có Chỉ số phát triển chính phủ điện tử (EGDI) ở mức "Rất cao".

Về thể chế, đã giải quyết được nhiều điểm nghẽn tồn tại từ lâu và tạo không gian, động lực phát triển mới cho nền kinh tế. Luật Viễn thông sửa đổi có hiệu lực. Luật Dữ liệu, Nghị định và Chiến lược về dữ liệu quốc gia đã tạo bước đột phá về thể chế dữ liệu, giải quyết được điểm nghẽn về cát cứ dữ liệu, mở ra không gian phát triển mới trong cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới về xử lý dữ liệu, đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất quan trọng, hình thành thị trường về dữ liệu.

Toàn cảnh điểm cầu tại trụ sở Chính phủ (Ảnh: VGP/Nhật Bắc)

Nghị định số 82/2024/NĐ-CP và Nghị định số 138/2024/NĐ-CP của Chính phủ giải quyết điểm nghẽn về sử dụng nguồn kinh phí chi thường xuyên trong đầu tư, trong bố trí kinh phí quản trị, vận hành, bảo dưỡng ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số đã tồn tại trong thời gian dài.

Nghị định số 147/2024/NĐ-CP của Chính phủ giải quyết điểm nghẽn trong xác định đối tượng, xử lý hành vi vi phạm pháp luật của người dùng mạng xã hội.

Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn mở ra con đường, không gian phát triển mới về công nghiệp công nghệ số, với cách tiếp cận độc đáo, thể hiện khát vọng lớn và quyết tâm cao.

Hạ tầng số được mở rộng, phát triển. Lần đầu tiên sau 15 năm, Việt Nam đấu giá thành công tần số, giúp bổ sung thêm 300 MHz cho 5G để nâng cao chất lượng di động băng rộng; là một trong số ít nước đang phát triển ngừng dịch vụ cho thuê bao 2G khi số thuê bao 2G còn lại chỉ còn khoảng 0,2% (so với trung bình các quốc gia khác khoảng 2-5%), đây là nỗ lực rất lớn của các doanh nghiệp viễn thông và ngành thông tin và truyền thông trong chuyển đổi thuê bao di động.

Chất lượng thông tin di động tăng, tốc độ tải băng rộng di động đạt 86,96 Mbps, tăng 14 bậc xếp hạng quốc gia (lên 37/110 quốc gia); tốc độ tải băng rộng cố định đạt 159,32 Mbps, tăng 7 bậc xếp hạng quốc gia (lên 35/154 quốc gia).

Việt Nam đưa vào khai thác 1 tuyến cáp biển mới, tuyến thứ 6 và là tuyến có dung lượng lớn nhất của Việt Nam (20Tbps) được đưa vào khai thác, giúp cải thiện tốc độ internet và bảo đảm sự bền vững kết nối quốc tế của Việt Nam. Tỉ lệ hộ gia đình có internet cáp quang đạt 82,4%, vượt mục tiêu đến năm 2025 là 80%.

Dữ liệu số và nền tảng số tiếp tục được xây dựng, phát triển. Giao dịch dữ liệu qua nền tảng tích hợp chia sẻ dữ liệu quốc gia) tăng 57%, từ 647 triệu năm 2023 lên 1.013 triệu giao dịch trong 2024.

Kinh tế số tăng trưởng vượt 20%/năm

Về chính phủ số, Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện chuyển đổi số có trọng tâm, trọng điểm, có mũi đột phá; đưa hoạt động chỉ đạo, điều hành trực tuyến và dựa trên dữ liệu.

Tỉ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình của cả nước đạt 45%, tăng 2,5 lần so với năm 2023. Cổng Dịch vụ công quốc gia tiếp tục phát huy hiệu quả với 4.475 thủ tục được tích hợp (70,8% tổng số thủ tục hành chính). Từ tháng 7/2024 dùng VNeID để đăng nhập, sử dụng dịch vụ công trực tuyến (khoảng 425.000 lượt/ngày) tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.

Về kinh tế số, tỷ trọng kinh tế số năm 2024 ước đạt 18,3% GDP, tốc độ tăng trưởng vượt 20%/năm, cao gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP, nhanh nhất Đông Nam Á.

Thương mại điện tử bán lẻ đạt doanh thu 25 tỷ USD, tăng khoảng 20%. Việt Nam thuộc top 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử hàng đầu thế giới. Tốc độ tăng trưởng thanh toán không dùng tiền mặt hàng năm tăng hơn 50%, dẫn đầu Đông Nam Á.

Về xã hội số, lần đầu tiên, tỉ lệ truy cập các nền tảng số "Make in Vietnam" so với các nền tảng số nước ngoài vượt 20%, đạt 25,25% tăng 5,62% so với năm 2023. Với kết quả này, Việt Nam trở thành một trong số ít các quốc gia có số lượng người dùng nền tảng số nội địa ở mức cao. Nhiều nền tảng số nội địa trong lĩnh vực ngân hàng, mạng xã hội, truyền hình, truyền thông… ngày càng được người dùng yêu thích, lựa chọn thay thế các nền tảng số nước ngoài.

Chứng thư chữ ký số cấp cho người dân trưởng thành năm 2024 đạt 12,5 triệu, tăng 58,61% so với với năm 2023, nâng tỉ lệ người trưởng thành có chữ ký số lên 25%.

Số lượng tài khoản VNeID đã kích hoạt trên 55,25 triệu, vượt mục tiêu 40 triệu tài khoản người dùng trong Đề án 06/CP; 90% người dân tham gia bảo hiểm có sổ sức khỏe điện tử; 100% học sinh/sinh viên có hồ sơ học tập số; 100% bệnh viện, trung tâm y tế công, cơ sở giáo dục đại học triển khai thanh toán không dùng tiền mặt.

Về an toàn thông tin, Việt Nam tăng 8 bậc từ vị trí 25 lên vị trí 17/194 quốc gia, thuộc nhóm I- Hình mẫu; đứng thứ 4/38 nước khu vực châu Á, Thái Bình Dương. Đội ngũ an toàn thông tin của Viettel, đại diện cho Việt Nam, đã xuất sắc vô địch năm thứ 2 liên tiếp tại "World Cup" của ngành bảo mật an toàn thông tin mạng toàn cầu. Tổng nhân lực công nghệ thông tin đạt 561.000 người, chiếm 1,1% tổng lao động.

Các đại biểu tham dự tại điểm cầu BHXH Việt Nam

Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết một số tồn tại, hạn chế, như tỉ lệ hồ sơ dịch vụ công trực tuyến toàn trình chưa cao. Tỉ lệ sử dụng chữ ký số còn thấp. Dữ liệu còn bị cát cứ, chưa kết nối, chia sẻ và khai thác hiệu quả.

Bên cạnh đó, mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị 34/CT-TTg, nhiều bộ, ngành, địa phương vẫn chưa xác định rõ các mũi đột phá trong thực hiện chuyển đổi số tại ngành, lĩnh vực, địa phương mình.

An toàn thông tin, an ninh mạng đối mặt với nhiều thách thức, lừa đảo trực tuyến, tội phạm sử dụng công nghệ cao xuyên quốc gia, tấn công mạng ngày càng phức tạp.

Nhân lực chuyên trách về công nghệ thông tin, công nghệ số trong các cơ quan, tổ chức, các ngành kinh tế mới nổi còn thiếu và chưa đồng đều. Kỹ năng số của người dân chưa đồng đều, đặc biệt người dân tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng khó khăn chưa được tiếp cận nhiều với các dịch vụ số.

Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết chủ đề chuyển đổi số quốc gia năm 2025 là "Chuyển đổi số toàn diện để phát triển kinh tế số, tạo ra động lực mới cho tăng trưởng kinh tế".

Các bộ, ngành, địa phương sẽ tiếp tục quyết liệt triển khai chuyển đổi số để tạo bước đột phá, quyết tâm hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ về chuyển đổi số đã đề ra trong Nghị quyết số 03 của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Năm 2025, Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số sẽ tập trung chỉ đạo triển khai chuyển đổi số toàn diện các ngành, lĩnh vực góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 8-10% trong năm 2025...

Box: Năm 2024, BHXH Việt Nam tiếp tục đạt nhiều kết quả nổi bật trong công tác Chuyển đổi số và triển khai Đề án 06 của Chính phủ. BHXH Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quan trọng để đồng bộ, kịp thời triển khai trong toàn Ngành các nhiệm vụ trong lĩnh vực này. Về nâng cao nhận thức chuyển đổi số, BHXH Việt Nam đã tổ chức nhiều khóa đào tạo, hội nghị, hội thảo. Hơn 16.100 cán bộ đã tham gia đào tạo trực tuyến, và hơn 1.500 bài báo, phóng sự đã được đăng tải trên các phương tiện truyền thông trong và ngoài Ngành để tuyên truyền về chuyển đổi số.

Về phát triển hạ tầng số, BHXH Việt Nam đã tích cực triển khai phát triển hệ thống CNTT và trở thành một trong những Bộ, ngành đi đầu về xây dựng Chính phủ số. Hiện tại, 100% nghiệp vụ của ngành được thực hiện trên phần mềm, 100% văn bản trao đổi giữa các cơ quan được thực hiện dưới dạng điện tử.

Về dữ liệu số, BHXH Việt Nam phối hợp với nhiều bộ, ngành để kết nối, chia sẻ dữ liệu, bao gồm: Xác thực hơn 99,8 triệu thông tin công dân trong CSDL Ngành với CSDL quốc gia về dân cư; Kết nối với Bộ Y tế để chia sẻ dữ liệu sổ sức khỏe điện tử, giấy chuyển tuyến, giấy hẹn khám lại; Liên thông dữ liệu đăng ký khai sinh, khai tử với Bộ Tư pháp; chia sẻ thông tin với Tổng cục Thuế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để cải cách thủ tục hành chính.

Về bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, BHXH Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản và triển khai các giải pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo an toàn thông tin, bao gồm tổ chức diễn tập an toàn thông tin, kiểm soát truy cập hệ thống và triển khai các giải pháp bảo mật tiên tiến.

Về cung cấp dịch vụ công trên môi trường số, BHXH Việt Nam hiện cung cấp 70 dịch vụ công trực tuyến toàn trình, trong đó 66 dịch vụ đã được tích hợp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia. Trong năm 2024, hơn 13 triệu hồ sơ đã được xử lý trực tuyến, chiếm 76,5% tổng số hồ sơ.

Bên cạnh đó, đến nay, 100% cơ sở KCB BHYT toàn quốc đã triển khai KCB BHYT bằng CCCD gắn chíp với hơn 163,9 triệu lượt tra cứu thông tin. Tính riêng tại khu vực đô thị, ước đến hết năm 2024 có khoảng 80% số người hưởng nhận các chế độ BHXH, TCTN qua tài khoản cá nhân (vượt 20% so với chỉ tiêu so với chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao).

Phạm Chính