Phụ nữ sống chung với HIV: Nguy cơ từ sự phân biệt, kỳ thị

27/02/2018 01:54 PM


Theo đánh giá của các chuyên gia, mặc dù chương trình ứng phó với HIV của Việt Nam đã đạt được tiến bộ trong cả 4 lĩnh vực gồm dự phòng; điều trị, chăm sóc và hỗ trợ; kỳ thị và phân biệt đối xử; thách thức bất bình đẳng giới. Tuy nhiên, phụ nữ sống chung với HIV vẫn bị kỳ thị và phân biệt đối xử nặng nề dẫn đến việc trì hoãn khám chữa bệnh.

Ảnh minh họa (Nguồn Internet).

Xu hướng gia tăng

Năm 2006, Việt Nam ban hành Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra bởi chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS), sau khi có luật, người nhiễm HIV và người có hành vi nguy cơ cao được tiếp cận các dịch vụ liên quan đến HIV/AIDS thuận lợi hơn; giảm sự kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV và gia đình người nhiễm. Đặc biệt, người nhiễm được tham gia nhiều hơn các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS bao gồm cả góp ý chính sách, pháp luật...; các tổ chức dựa vào cộng đồng của người nhiễm HIV phát triển rộng hơn và hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai Luật cho thấy có nhiều bất cập gây cản trở và làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam. Đó là, còn nhiều người nhiễm HIV không có giấy tờ tùy thân, không có việc làm, bị kỳ thị phân biệt đối xử, thiếu kiến thức về chính sách và pháp luật, không có vốn để phát triển sinh kế, khó tiếp cận chương trình dự phòng HIV/AIDS... Đáng lưu ý, phụ nữ sống chung với HIV tại Việt Nam vẫn gặp phải những thách thức và khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ dự phòng, điều trị và chăm sóc, cũng như các dịch vụ hỗ trợ. Với tâm lý e ngại, sợ kỳ thị, nhiều phụ nữ sống chung với HIV không tiếp cận được với các thông tin cần thiết để bảo vệ sức khỏe và có một cuộc sống tốt hơn.

Theo thống kê của Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế, nếu như trong giai đoạn đầu tiên, trung bình mỗi năm Việt Nam ghi nhận khoảng 30.000 ca nhiễm mới với tỷ lệ nữ chiếm khoảng 8% thì tỷ lệ này đã lên đến 33% vào năm 2014. Mặc dù số ca nhiễm mới đã giảm xuống chỉ còn khoảng 10.000 người/năm. Xu hướng gia tăng tỷ lệ phụ nữ nhiễm HIV tại Việt Nam cũng như tình trạng kỳ thị phân biệt đối xử với phụ nữ nhiễm HIV là vấn đề đáng lo ngại, tạo ra những khó khăn thách thức trong ứng phó quốc gia với đại dịch này.

Thực tế dù hiện nay, vấn đề bất bình đẳng giới đã được đề cập trong khung hướng dẫn ứng phó với HIV, bao gồm Luật Phòng, chống HIV/AIDS (năm 2006), Chiến lược quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Khung pháp lý này là điểm khởi đầu tốt để giải quyết các khía cạnh giới của đại dịch với mục tiêu, hoạt động và chỉ tiêu có thể được sửa đổi, hoàn thiện... Tuy nhiên, Chiến lược quốc gia chưa công nhận đầy đủ sự liên quan giữa bất bình đẳng giới và HIV.

Ảnh minh họa (Nguồn Internet).

Cải thiện việc tiếp cận các dịch vụ

Làm thế nào để phụ nữ sống chung với HIV không bị kỳ thị và dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các dịch vụ dự phòng, điều trị và chăm sóc? Tại Hội thảo “Đánh giá giới trong ứng phó với HIV ở Việt Nam và chặng đường sắp tới” do Bộ Y tế tổ chức, nhiều đại biểu cho biết, dự kiến trong thời gian từ năm 2018, các tổ chức quốc tế sẽ cắt giảm việc tài trợ cho phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam và chỉ hỗ trợ về kỹ thuật. Do vậy, các hoạt động phòng chống HIV/AIDS, đặc biệt việc bảo đảm điều trị cho bệnh nhân AIDS sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Bên cạnh đó, tình trạng kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV/AIDS vẫn là rào cản cho những người có nhu cầu tiếp cận với các dịch vụ dự phòng, điều trị và chăm sóc nhiễm HIV/AIDS, làm giảm tác dụng và hiệu quả của các dịch vụ này. Chính vì vậy, để đạt được bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái, công tác ứng phó với HIV cần tập trung vào 3 lĩnh vực: Cải thiện việc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, tình dục và các dịch vụ về HIV; huy động cộng đồng để chuyển đổi các quan niệm và hành vi bất bình đẳng giới; trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái bằng cách đầu tư vào sự lãnh đạo của phụ nữ trong công tác ứng phó với HIV.

Theo chuyên gia Chu Quốc Ân, cần xem xét sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống HIV/AIDS cho phù hợp với bối cảnh mới và nguyện vọng của người nhiễm HIV và người có hành vi, nguy cơ cao nhiễm HIV. Tiếp tục tổ chức, tạo điều kiện cho các cộng đồng chịu ảnh hưởng được đóng góp ý kiến phù hợp trong quá trình xem xét, sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống HIV/AIDS. Bên cạnh đó, các vấn đề cần xem xét sửa đổi bổ sung tập trung vào tiếp cận phổ cập dịch vụ dự phòng, xét nghiệm HIV, điều trị HIV cho tất cả, bảo đảm bí mật, đặc biệt là chống kỳ thị và phân biệt đối xử.

Để bảo đảm bình đẳng giới, chống kỳ thị với những người nhiễm HIV/AIDS, thời gian tới, phải tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS, đặc biệt là cho phụ nữ, trẻ em; huy động sự tham gia của các phương tiện truyền thông để nâng cao nhận thức cộng đồng, chống phân biệt đối xử với người nhiễm HIV, trong đó có phụ nữ, trẻ em. Đồng thời, ngành y tế tiếp tục tăng cường tiếp cận của phụ nữ với các dụng cụ giảm tác hại miễn phí; đào tạo nhân viên tư vấn để giải quyết các vấn đề cụ thể mà phụ nữ và trẻ em gái đang gặp xung quanh việc xét nghiệm, chẩn đoán, bảo mật thông tin...

Theo ĐBND