Nghị quyết số 68/2013/QH13: Đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật BHYT, thúc đẩy lộ trình BHYT toàn dân

25/09/2025 03:09 PM


Sau 12 năm triển khai Nghị quyết số 68/2013/QH13 ngày 29/11/2013 của Quốc hội khóa XIII về “Đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật BHYT, tiến tới BHYT toàn dân” (Nghị quyết số 68/2013/QH13), chính sách BHYT đã thật sự đi vào cuộc sống, trở thành điểm tựa an sinh quan trọng của người dân.

Quyết sách mang tầm chiến lược

Trước năm 2013, tỷ lệ bao phủ BHYT còn khiêm tốn, hệ thống y tế đối mặt tình trạng quá tải, chất lượng dịch vụ chưa đồng đều. Nhằm khắc phục những tồn tại này, ngày 29/11/2013, Quốc hội khóa XIII ban hành Nghị quyết số 68/2013/QH13, đặt mục tiêu đến năm 2020 có tối thiểu 80% dân số tham gia BHYT, giảm 50% tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trên, hoàn thành liên thông dữ liệu giữa cơ quan BHXH và các cơ sở khám, chữa bệnh (KCB).

Nghị quyết số 68/2013/QH13 đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong đẩy mạnh thực hiện chính sách BHYT, tiến tới BHYT toàn dân.

Nghị quyết số 68/2013/QH13 không chỉ mở rộng diện bao phủ mà còn chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, hoàn thiện cơ chế tài chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, coi đây là nhiệm vụ chiến lược để bảo đảm mọi người dân đều được bảo vệ sức khỏe một cách công bằng.

Thành tựu nổi bật sau 12 năm triển khai

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo sát sao của Quốc hội, Chính phủ và sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành, của cấp ủy, chính quyền địa phương, cùng với nỗ lực không ngừng của ngành Y tế và hệ thống BHXH Việt Nam, sau 12 năm thực hiện Nghị quyết số 68/2013/QH13 đã đạt được những thành tựu nổi bật.

Độ bao phủ BHYT tăng trưởng ấn tượng. Nếu như năm 2013, cả nước có trên 61 triệu người tham gia BHYT (68,8% dân số), thì đến năm 2024 con số này đạt hơn 95 triệu người, tương ứng 94,2% dân số. Chỉ trong hơn một thập kỷ, số người tham gia tăng thêm khoảng 34 triệu, minh chứng cho tính đúng đắn, hiệu quả của chính sách. Với kết quả này, Việt Nam đã tiệm cận mục tiêu BHYT toàn dân, về đích sớm so với Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân trong tình hình mới (mục tiêu đến năm 2025 đạt trên 95% dân số tham gia BHYT). Thực tế, tại nhiều quốc gia phát triển cũng phải mất 40-80 năm mới đạt được độ bao phủ tương tự.

Quyền lợi người tham gia ngày càng được đảm bảo và mở rộng. Nghị quyết số 68/2013/QH13 đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm và mở rộng quyền lợi cho người tham gia BHYT. Hiện quỹ BHYT chi trả trên 10.000 dịch vụ kỹ thuật, từ các thủ thuật cơ bản đến kỹ thuật cao như can thiệp, phẫu thuật tim mạch, ghép tạng, chẩn đoán hình ảnh hiện đại (MRI, CT, PET-CT). Người tham gia BHYT được thanh toán 1.037 hoạt chất, với hàng nghìn chế phẩm sinh phẩm, thuốc tân dược,… trong đó, có nhiều thuốc điều trị ung thư và bệnh hiểm nghèo với chi phí rất cao.

Nhiều trường hợp bệnh nhận mắc bệnh hiểm nghèo, điều trị dài ngày, chi phí KCB lên tới hàng trăm triệu đồng, thậm chí hàng tỷ đồng, đều được quỹ BHYT thanh toán phần lớn hoặc toàn bộ chi phí. Từ năm 2020 đến tháng 8/2025, có khoảng 41.188 trường hợp được quỹ BHYT chi trả chi phí KCB từ 500 triệu đồng đến trên 2 tỷ đồng trở lên, với tổng số tiền chi trả hơn 33.000 tỷ đồng. Một trường hợp điển hình là bệnh nhân ở tỉnh Vĩnh Long, từ năm năm 2020 đến tháng 8/2025 được quỹ BHYT thanh toán hơn 28 tỷ đồng chi phí điều trị bệnh chính là thiếu yếu tố VIII di truyền; viêm họng cấp; vết thương hở của các phần không đặc hiệu và khác của bụng,…

Nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ y tế. Số lượng cơ sở y tế ký hợp đồng KCB BHYT không ngừng tăng, tạo điều kiện để người dân tiếp cận dịch vụ ngay tại địa phương, hạn chế tình trạng chuyển tuyến gây quá tải bệnh viện tuyến trên. Nếu như năm 2013, số cơ sở y tế ký hợp đồng KCB BHYT mới là 2.111 cơ sở thì đến năm 2024 đã có hơn 3.000 cơ sở, cùng hơn 10.000 trạm y tế xã, phòng khám đa khoa khu vực. Tình trạng quá tải bệnh viện Trung ương, tuyến tỉnh giảm đáng kể; công suất giường bệnh tại các bệnh viện lớn đã trở về mức an toàn.

Quỹ BHYT được quản lý an toàn, minh bạch, hiệu quả. BHXH Việt Nam phối hợp Bộ Y tế tăng cường giám sát, quản lý chi phí KCB, bảo đảm thanh toán kịp thời, đúng quy định cho các cơ sở y tế, giúp người có thẻ BHYT giảm gánh nặng tài chính khi ốm đau.

Mỗi năm, quỹ BHYT chi trả trên 190 triệu lượt KCB, gấp đôi so với thời điểm trước khi có Nghị quyết số 68/2013/QH13. Công tác quản lý quỹ được thực hiện bài bản, phân tích chi phí theo nhóm bệnh, nhóm tuổi, tuyến điều trị để dự báo nhu cầu và xây dựng kế hoạch chi trả dài hạn của quỹ. Năm 2013, quỹ chi trả trên 125 triệu lượt KCB với hơn 48.000 tỷ đồng, đến năm 2024 tăng lên trên 184 triệu lượt với hơn 140.000 tỷ đồng, vẫn bảo đảm cân đối thu - chi. Trong bối cảnh chi phí y tế gia tăng, việc chi trả kịp thời từ quỹ BHYT không chỉ giúp người bệnh yên tâm điều trị, mà còn tạo nguồn lực cho các cơ sở y tế nâng cao chất lượng phục vụ.

Tạo động lực mạnh mẽ cho cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong thực hiện chính sách BHYT. Từ ngày 24/6/2016, Hệ thống Thông tin giám định BHYT được BHXH Việt Nam đưa vào vận hành, kết nối với tất cả cơ sở KCB trên toàn quốc, xử lý trên 180 triệu hồ sơ KCB mỗi năm; góp phần giám định chi phí KCB BHYT hiệu quả, tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng và bảo đảm minh bạch quỹ BHYT.

Tháng 11/2020, ứng dụng VssID - BHXH số được BHXH Việt Nam chính thức đưa vào sử dụng, cung cấp nhiều thông tin, tiện ích về BHXH, BHYT cho người dùng. Từ tháng 6/2021, hình ảnh thẻ BHYT trên ứng dụng VssID được chấp nhận thay thế cho thẻ BHYT giấy khi KCB và đến nay đã có hơn 4 triệu lượt sử dụng hình ảnh thẻ trên ứng dụng khi làm thủ tục KCB BHYT.

BHXH Việt Nam cũng là đơn vị tiên phong triển khai Đề án 06, phối hợp Bộ Công an tích hợp thông tin thẻ BHYT vào CCCD gắn chíp và ứng dụng VNeID, người dân có thể sử dụng CCCD gắn chíp hoặc hình ảnh thẻ BHYT trên ứng dụng VNeID khi thực hiện các thủ tục KCB. Đến tháng 6/2025, 100% cơ sở KCB đã tra cứu thông tin thẻ BHYT bằng CCCD gắn chíp với hơn 227,5 triệu lượt thành công.

Việc liên thông, đồng bộ dữ liệu và cho phép sử dụng các phương thức thẻ BHYT điện tử trong KCB BHYT đã không chỉ tạo thuận lợi cho người dân, mà còn cung cấp dữ liệu tức thời, minh bạch, giúp cơ sở KCB cũng như cơ quan BHXH quản lý và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách BHYT, hướng tới hệ thống an sinh xã hội hiện đại.

Phát huy hiệu quả sự vào cuộc của hệ thống chính trị

Thành công của Nghị quyết số 68/2013/QH13 là kết quả của sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị. Quốc hội giữ vai trò then chốt, thường xuyên giám sát, kịp thời điều chỉnh chính sách, mở rộng diện bao phủ và nâng cao chất lượng KCB, bảo đảm quyền lợi chính đáng của người dân. Chính phủ, Thủ tướng ban hành nhiều Nghị định, Quyết định quan trọng, giao chỉ tiêu phát triển BHYT hằng năm cho từng địa phương, tạo cơ chế trách nhiệm rõ ràng, thúc đẩy chính quyền các cấp hành động quyết liệt. Nhờ đó, hình thành cơ chế quản trị đa tầng: Quốc hội xây nền pháp lý; Chính phủ cụ thể hóa các văn bản dưới luật để tổ chức thực hiện; các bộ, ngành và địa phương trực tiếp triển khai, biến Nghị quyết thành phong trào hành động lan tỏa toàn quốc.

BHXH Việt Nam, với vai trò cơ quan tổ chức thực hiện chính sách đã chủ động phối hợp Bộ Y tế, các bộ ngành có liên quan, làm việc trực tiếp với các địa phương để tìm giải pháp tổ chức thực hiện chính sách BHYT phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương. Nhiều địa phương linh hoạt sử dụng kinh phí kết dư quỹ BHYT và ngân sách địa phương hỗ trợ nhóm cận nghèo, người cao tuổi dưới 80 tuổi, hộ có hoàn cảnh khó khăn được tham gia BHYT,… bảo đảm mọi người dân đều có cơ hội bảo vệ, chăm sóc sức khỏe toàn diện.

Công tác truyền thông được BHXH Việt Nam triển khai sâu rộng, với phương châm “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng”, giúp người dân nâng cao nhận thức, tự giác tham gia BHYT. BHXH Việt Nam cũng tích cực kiến nghị hoàn thiện cơ chế, tháo gỡ vướng mắc về đấu thầu thuốc, giám định và thanh toán chi phí KCB, bảo vệ tối đa quyền lợi người tham gia.

Những nỗ lực và sự chủ động của BHXH Việt Nam trong tổ chức thực hiện chính sách BHYT đã khẳng định vai trò nòng cốt của toàn Hệ thống trong tổ chức thực hiện Nghị quyết số 68/2013/QH13, góp phần đưa chính sách BHYT thực sự đi vào cuộc sống.

Bên cạnh những kết quả nổi bật, việc thực hiện Nghị quyết số 68/2013/QH13 vẫn còn những hạn chế, đòi hỏi các giải pháp căn cơ để tiến tới hoàn thiện mục tiêu BHYT toàn dân như: Tỷ lệ bao phủ BHYT giữa các vùng miền chưa đồng đều, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo; chất lượng dịch vụ y tế cơ sở còn hạn chế, thiếu nhân lực và trang thiết bị, khiến người dân chưa mặn mà đăng ký KCB ban đầu, tạo áp lực lên tuyến trên và làm gia tăng khoảng cách tiếp cận dịch vụ giữa thành thị và nông thôn, miền núi; chi phí KCB BHYT tại các bệnh viện tuyến trên tăng nhanh, gây áp lực lớn cho quỹ BHYT, đặt ra yêu cầu tăng cường giám định, quản lý chi phí hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, tình trạng chậm đóng, trốn đóng BHYT ở một số doanh nghiệp vẫn diễn ra, ảnh hưởng quyền lợi người lao động.

Kiến nghị giải pháp, hướng tới phát triển BHYT toàn dân bền vững

Trên cơ sở đánh giá những thuận lợi, khó khăn và bài học kinh nghiệm sau 12 năm triển khai Nghị quyết số 68/2013/QH13, nhằm tiếp tục triển khai hiệu quả chính sách BHYT, hoàn thiện mục tiêu BHYT toàn dân bền vững, bảo đảm tốt nhất quyền lợi người tham gia, BHXH Việt Nam đề xuất, kiến nghị một số nội dung cụ thể sau:

Đối với Quốc hội: Đề nghị tiếp tục tăng cường giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về BHYT và công tác KCB BHYT.

Đối với Chính phủ: Đề nghị tiếp tục quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các bộ, ngành xây dựng, hoàn thiện đồng bộ chính sách, pháp luật liên quan; tăng cường quản lý, sử dụng hiệu quả quỹ BHYT.

Đối với Bộ Y tế: Đề nghị sớm hoàn thiện quy định chuyên môn, tiêu chuẩn chất lượng KCB BHYT, cũng như cơ chế kiểm soát sử dụng quỹ BHYT; hướng dẫn triển khai quy hoạch mạng lưới cơ sở, trang thiết bị y tế; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh.

Đối với HĐND, UBND các tỉnh, thành phố: Đề nghị tiếp tục quan tâm, nâng cao hiệu quả hoạt động Ban Chỉ đạo thực hiện chính sách BHXH, BHYT; đẩy mạnh giám sát công tác tổ chức, thực hiện chính sách BHYT tại địa phương; giao chỉ tiêu bao phủ BHYT giai đoạn 2026-2030 đến từng phường; tiếp tục cân đối, bố trí ngân sách địa phương để hỗ trợ người dân có hoàn cảnh khó khăn tham gia BHYT.

Đối với Sở Y tế và các cơ sở KCB: Đề nghị phối hợp thực hiện công tác KCB BHYT chất lượng, minh bạch, hiệu quả, nâng cao trách nhiệm giải trình.

Sau 12 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 68/2013/QH13, chính sách BHYT đã có những bước tiến quan trọng, khẳng định vai trò “đòn bẩy” trong các chính sách an sinh xã hôi, trở thành điểm tựa an sinh vững chắc cho mọi người dân, góp phần hiện thực hóa mục tiêu BHYT toàn dân, xây dựng hệ thống y tế công bằng, hiệu quả, hướng tới phát triển bền vững./.

Thái Dương