Đồng bộ giải pháp để nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động

11/11/2025 08:43 AM


Công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đang đứng trước nhiều cơ hội bứt phá, song cũng đặt ra không ít thách thức. Theo các chuyên gia, để nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô, việc triển khai đồng bộ nhiều giải pháp về cơ chế, chính sách và quản lý là hết sức cần thiết.

Ảnh minh hoạ, nguồn Internet

Kết quả nổi bật

Quyền Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Nội vụ) Vũ Trưởng Giang cho biết, năm 2025 là năm đầu triển khai nhiều nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị, tạo động lực mạnh mẽ cho lĩnh vực xuất khẩu lao động.

Sau 45 năm thực hiện hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, hàng triệu lao động đã có việc làm ổn định, đóng góp nguồn ngoại tệ quan trọng cho quốc gia. Riêng 10 tháng năm 2025, cả nước đã đưa hơn 120.000 lao động ra nước ngoài. Trong đó: Nhật Bản tiếp nhận hơn 55.000 lao động; Đài Loan (Trung Quốc) gần 47.000 lao động; Hàn Quốc gần 10.000 lao động cùng các thị trường châu Âu như Đức, Romania, Hungary, Nga tiếp tục duy trì ổn định.

Dự kiến đến cuối năm 2025, tổng số lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài giai đoạn 2021-2025 sẽ đạt khoảng 636.000 người, bằng 127,3% kế hoạch (kế hoạch 500.000 người). Hiện có khoảng 860.000 lao động Việt Nam đang làm việc dài hạn ở nước ngoài, mỗi năm gửi về nước 6,5 – 7 tỷ USD, tiếp tục là nguồn ngoại tệ quan trọng của nền kinh tế.

Bên cạnh những kết quả nổi bật, hoạt động xuất khẩu lao động đang đối diện nhiều áp lực cạnh tranh. Các quốc gia như Philippines, Indonesia, Ấn Độ, Bangladesh đang đẩy mạnh chính sách để thu hút thị trường tiếp nhận, tạo sức ép lớn đối với lao động Việt Nam.

Tại Nhật Bản, đồng Yên giảm sâu khiến thu nhập thực nhận của người lao động giảm đáng kể; trong khi quy trình tuyển chọn ngày càng phức tạp, gây khó khăn trong việc xác định ngành nghề phù hợp.

Hàn Quốc đã ghi nhận nhiều tình trạng lao động bỏ trốn – đặc biệt nhóm thuyền viên – có xu hướng tăng do cạnh tranh không lành mạnh giữa doanh nghiệp. Ở lĩnh vực đóng tàu, dù số lao động đăng ký cao nhưng tỷ lệ xuất cảnh thấp vì nhiều doanh nghiệp cùng “chào hàng” một nguồn việc.

Tại Đài Loan (Trung Quốc), tình trạng môi giới tràn lan làm gia tăng chi phí của người lao động. Với hơn 500 doanh nghiệp hoạt động, một số đơn vị năng lực hạn chế, cạnh tranh bằng chi hoa hồng cho môi giới, dẫn tới chi phí cao và rủi ro cho người lao động.

Ngoài ra, năng lực ngoại ngữ, tay nghề của một bộ phận lao động còn hạn chế, khiến doanh nghiệp phải tăng chi phí đào tạo. Nhiều doanh nghiệp cũng gặp khó khăn khi tiếp cận thông tin pháp luật di trú tại các thị trường châu Âu, châu Mỹ.

Hoàn thiện cơ chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bảo vệ quyền lợi của người lao động

Sự chững lại của hoạt động xuất khẩu lao động đến từ nhiều nguyên nhân: khó khăn kinh tế, siết chặt chính sách nhập cư tại một số nước, cơ chế quản lý còn bất cập, tình trạng vi phạm trong hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài…

Để khắc phục, Bộ Nội vụ cho biết sẽ triển khai đồng bộ nhiều giải pháp như, đơn giản hóa thủ tục hành chính; công khai, minh bạch thông tin về thủ tục, thỏa thuận, chi phí để người dân dễ dàng tiếp cận. Phối hợp Bộ Tư pháp sửa đổi Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, đồng thời xây dựng Chiến lược quốc gia về lao động ngoài nước. Đẩy mạnh truyền thông về các thỏa thuận quốc tế, cơ chế, thủ tục; giúp người dân nhận diện sự khác biệt giữa hoạt động đưa người đi làm việc theo hợp đồng thương mại và phi lợi nhuận, tránh bị môi giới lợi dụng.

Tăng cường đào tạo ngoại ngữ, tay nghề, kỹ năng ứng xử nhằm giúp lao động phát huy chuyên môn, tuân thủ pháp luật sở tại, không gây áp lực đến nước tiếp nhận.

Phối hợp Bộ Ngoại giao và các cơ quan lãnh sự để thực hiện bảo hộ công dân, xử lý kịp thời các rủi ro phát sinh.

Theo ông Vũ Trường Giang, muốn nâng cao chất lượng xuất khẩu lao động, trách nhiệm của doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở việc đưa lao động xuất cảnh, mà cần thực hiện trọn vẹn chuỗi trách nhiệm: kết nối thị trường – ký thỏa thuận – tuyển chọn – đào tạo – bồi dưỡng kỹ năng – hỗ trợ, bảo hộ người lao động trong suốt quá trình làm việc – đến khi họ trở về nước. Điều này vừa giúp lao động được bảo vệ tốt hơn, vừa củng cố uy tín của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Nếu các giải pháp nêu trên được thực thi đồng bộ, lĩnh vực xuất khẩu lao động Việt Nam sẽ có bước phát triển mạnh mẽ, nâng cao cả về chất lượng nguồn nhân lực và quy mô thị trường, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội và nâng tầm vị thế lao động Việt Nam trên trường quốc tế./.

TT